Địa lý và khí hậu Taiga

Vân sam trắng (Picea glauca) trong rừng taiga, quốc lộ Denali, dãy núi Alaska, Alaska.

Quần xã sinh vật taiga có khí hậu lục địa khắc nghiệt với sự dao động về nhiệt độ rất lớn giữa mùa hèmùa đông, được phân loại ở cấp "Dfc" hay "Dfb" trong sơ đồ phân loại khí hậu Köppen. Cùng với tundra và các chỏm băng vĩnh cửu, nó là quần xã sinh vật lạnh nhất trên Trái Đất. Do nằm ở vĩ độ cao nên phần lớn thời gian trong năm, Mặt Trời không lên quá cao so với đường chân trời; mùa đông kéo dài ít nhất là 5-6 tháng, với nhiệt độ trung bình là dưới điểm đóng băng của nước. Nhiệt độ dao động trong khoảng từ -50 °C tới +30 °C trong một năm, với 8 tháng hoặc hơn thế với nhiệt độ trung bình dưới 10 °C. Mùa hè ngắn ngủi nhưng nói chung là ấm và ẩm ướt. Nói chung, rừng taiga phát triển ở phía bắc của đường đẳng nhiệt 10 °C tháng Bảy, đôi khi tới đường đẳng nhiệt 9 °C tháng Bảy[2][3]. Giới hạn phía nam biến đổi khá rõ nét, phụ thuộc vào lượng mưa; rừng taiga có thể bị thay thế bằng các đồng rừng thảo nguyên thưa về phía nam của đường đẳng nhiệt 15 °C tháng Bảy khi lượng mưa tại đó là rất thấp, nhưng nói chung thường kéo dài tới phía nam của đường đẳng nhiệt 18 °C tháng Bảy, và ở những khu vực có lượng mưa cao hơn (đáng chú ý là miền đông Siberi và khu vực cận kề ở phía bắc Mãn Châu) thì kéo dài tới phía nam của đường đẳng nhiệt 20 °C tháng Bảy. Trong các khu vực ấm hơn, rừng taiga có sự đa dạng cao hơn về loài với các loài ưa môi trường ấm như thông Triều Tiên, vân sam Jezolinh sam Mãn Châu, và dần dần hợp nhất vào các cánh rừng ôn đới hỗn hợp, còn ở các khu vực như trên vùng bờ biển ven Thái Bình Dương của châu Á và Bắc Mỹ thì chúng hợp nhất thành các rừng mưa ôn đới lá kim.

Khu vực rừng taiga thường có lượng giáng thủy thấp trong cả năm (trung bình hàng năm khoảng 200–750 mm), chủ yếu là do các trận mưa trong các tháng mùa hè, nhưng tuyết và sương cũng góp một phần đáng kể. Do tốc độ bay hơi là thấp trong phần lớn thời gian của năm nên lượng giáng thủy là cao hơn lượng bốc hơi và vì thế nó là đủ để phát triển các thảm thực vật rậm rạp.Tuyết có thể tồn tại trên mặt đất tới 9 tháng ở phần xa nhất về phía bắc của khu vực sinh thái taiga[4].

Phần lớn khu vực hiện nay được phân loại là taiga thì trong quá khứ gần đây đã từng bị đóng băng. Khi các sông băng rút lui, chúng để lại các chỗ lún xuống trong địa hình và sau đó được nước chiếm chỗ, tạo ra các hồ và đầm lầy (đặc biệt là đất đầm lầy), được tìm thấy nhiều nơi trong rừng taiga.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Taiga http://www.barrameda.com.ar/ecology/the-tundra-and... http://www.canadiangeographic.ca/atlas/themes.aspx... http://taiga.terraformers.ca/ http://dictionary.reference.com/browse/taiga http://www.ups.edu/x6111.xml http://www.cas.vanderbilt.edu/bioimages/ecoframe-l... http://earthobservatory.nasa.gov/Laboratory/Biome/... http://www.greenpeace.org/canada/en/campaigns/bore... http://www.nature.org/wherewework/northamerica/can... http://www.panda.org/about_wwf/where_we_work/ecore...